Sau hơn nửa tháng đưa ra Dự thảo lấy ý kiến, giữa tuần qua, NHNN ban hành Thông tư số 14/2021/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 01 quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (TCTD) cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Theo đánh giá của TS. Võ Trí Thành - Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, ngành Ngân hàng đã rất nỗ lực và cố gắng làm hết những chính sách mà họ có thể làm cho doanh nghiệp.
Ông đánh giá thế nào về các chính sách của ngành Ngân hàng trong thời gian vừa qua?
Có thể nói các chính sách của ngành Ngân hàng đưa ra khá kịp thời, đúng và trúng mục tiêu hỗ trợ cho cộng đồng doanh nghiệp và nền kinh tế trong thời gian qua. Đặc biệt Thông tư 14 được ban hành nhanh chóng, kịp thời gỡ khó cho cả ngân hàng và khách hàng vay. Ngân hàng có điều kiện hỗ trợ doanh nghiệp, còn doanh nghiệp có thêm nguồn lực tài chính sớm phục hồi sản xuất khi dịch kiểm soát, kinh tế tăng trưởng trở lại.
Trước khi ban hành Thông tư 14, NHNN đã sớm ban hành Thông tư 01, sau đó là Thông tư 03 cho phép cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi suất, phí và giữ nguyên nhóm nợ để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp. NHNN cũng liên tục chỉ đạo các NHTM tích cực giảm lãi suất cho vay, đưa ra các gói tín dụng ưu đãi… đã giúp doanh nghiệp giảm bớt gánh nặng tài chính cũng như áp lực trả nợ để vượt qua giai đoạn khó khăn, phục hồi sản xuất kinh doanh trong suốt thời gian vừa qua. Ngoài ra, các ngân hàng còn tích cực giảm phí hỗ trợ khách hàng…
Có thể khẳng định, các chính sách của ngành Ngân hàng đưa ra bám rất sát với Nghị quyết của Chính phủ. Tại Nghị quyết 105 của Chính phủ vừa ban hành cuối tuần qua có yêu cầu NHNN khuyến khích TCTD tiết giảm chi phí để giảm lãi suất cho vay đối với các khoản vay hiện hữu và khoản vay mới nhằm hỗ trợ sản xuất kinh doanh. Trên thực tế, vừa rồi các ngân hàng cũng đã chủ động giảm mạnh lãi suất. Không những vậy, đợt giảm lãi suất lần này được NHNN giám sát chặt và có chế tài để buộc NHTM phải giảm lãi suất thực chất như gắn chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng…
Có ý kiến cho rằng, mức giảm lãi suất trên là chưa đủ mà cần giảm thêm nữa mới đủ giúp doanh nghiệp sớm vượt qua khó khăn. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?
Đúng là với doanh nghiệp, lãi vay càng giảm nhiều càng tốt. Đó cũng là mong muốn chính đáng của họ. Nhưng nếu đứng ở góc độ ngân hàng, vấn đề không đơn giản. Có thể nhìn mức lãi suất cho vay mà các ngân hàng đã và đang giảm cho từng khách hàng khoảng 0,5% - 2%/năm tuỳ mức độ ảnh hưởng là khá ít. Nhưng nếu ta tính trên tổng dư nợ nền kinh tế hơn 9 triệu tỷ đồng thì con số chi phí ngân hàng hỗ trợ cho khách hàng vay là không hề nhỏ.
Bên cạnh việc giảm lãi suất, theo tôi, vấn đề quan trọng không kém đó là khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp như thế nào để có thể bắt kịp được sự phục hồi của nền kinh tế trong giai đoạn hậu dịch. Tất nhiên để làm được việc này không phải dễ, nhất là trong điều kiện sức khoẻ doanh nghiệp suy giảm nhiều dưới tác động của dịch bệnh. Việc tiếp cận tín dụng cần quan tâm hai yếu tố: tiêu chuẩn vay và quy trình vay.
Theo đó, ngân hàng có thể chủ động trong việc cải thiện quy trình đơn giản hơn, giảm thiểu chi phí giao dịch cho cả hai bên. Còn tiêu chuẩn phải thay đổi như thế nào lại là câu chuyện khó, nó liên quan đến cả việc cân bằng lợi ích ngân hàng - người vay và chuyện an toàn của NHTM và lớn hơn là cả hệ thống ngân hàng. Ở mức độ rất lớn như vậy, thì đó là câu chuyện chính sách của NHNN. Trên thực tế, NHNN đã và đang ban hành nhiều chính sách với cơ chế mở để hỗ trợ tối đa cho doanh nghiệp.
Các ngân hàng đã chủ động giảm mạnh lãi suất, phí để hỗ trợ doanh nghiệp
Nhìn chung đến thời điểm này, tôi cho rằng các ngân hàng đã rất nỗ lực tìm mọi cách để hỗ trợ khách hàng vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay. Đó cũng chính là cách mà các ngân hàng tự cứu lấy mình. Vì nếu gánh nặng tài chính quá lớn, khách hàng chậm phục hồi sản xuất, kinh doanh thì rủi ro phá sản sẽ ngày càng tăng, khi đó các ngân hàng sẽ phải đối mặt với nguy cơ nợ xấu, nợ có khả năng mất vốn gia tăng khó lường.
Nói như vậy, dư địa để cho ngành Ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp, nền kinh tế trong thời gian tới không còn nhiều phải không, thưa ông?
Đúng là như vậy. Phải nói rằng, thời gian vừa qua, ngành Ngân hàng đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng NHNN đã rất khéo léo hoá giải khó khăn thông qua cơ chế chính sách phù hợp, cộng với sự chủ động của các NHTM, đã vừa hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, bắt nhịp với phục hồi thế giới; vừa duy trì lợi ích người gửi tiền, mà vẫn hạn chế rủi ro, đảm bảo an toàn hệ thống và ổn định kinh tế vĩ mô. Tôi biết, hỗ trợ doanh nghiệp là mục tiêu ưu tiên nhất của hệ thống ngân hàng ở giai đoạn này.
Nhưng như nói ở trên, ngành Ngân hàng phải cân đối rất nhiều yếu tố để đưa ra quyết định chính sách hỗ trợ tốt nhất cho doanh nghiệp nhưng vẫn phải đảm bảo mục tiêu lớn là ổn định kinh tế vĩ mô và an toàn của hệ thống tài chính tiền tệ. Tuy sức khỏe hệ thống NHTM Việt Nam đã được cải thiện nhiều, lành mạnh hơn nhiều sau cải tổ trong thời gian qua, song vẫn chưa phải là quá mạnh và chưa đồng đều. Các NHTM yếu kém vẫn còn và cũng rất khó khăn trong việc xử lý triệt để.
Bên cạnh đó, các ngân hàng cần phải tiếp tục tăng vốn đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn quốc tế như Basel II, tiếp đến là Basel III. Thực tế, hiện vẫn còn NHTM chưa đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn Basel II nên việc cải thiện sức khoẻ tài chính, tăng vốn là đòi hỏi rất cấp thiết. Muốn làm được vậy các ngân hàng phải có kết quả kinh doanh tốt, đảm bảo khả năng sinh lời. Vì thế, chúng ta cũng cần phải cảm thông cho ngân hàng.
Nhìn tổng thể, trong vô vàn khó khăn, hệ thống NHTM vững là một tín hiệu tích cực. Hệ thống này mà có vấn đề lớn thì kinh tế càng nguy. Do đó việc đảm bảo hệ thống ngân hàng có sức khỏe thật tốt là một điều kiện tốt để việc chia sẻ giữa NHTM với doanh nghiệp thuận lợi hơn. Đây là điều rất đúng, rất quan trọng vì doanh nghiệp và NHTM là thực thể cộng sinh với nhau. Doanh nghiệp có sống thì NHTM mới sống được.
Xin cảm ơn ông!
Nguồn: